Bếp lửa (Thơ Bằng Việt) | AtaBook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 21/08/2023
Bằng Việt - Bếp lửa
 


Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt (sinh năm 1941) sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở Liên Xô (cũ). Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa - tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ in chung vào năm 1968.

Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ Bằng Việt, để lại trong lòng người đọc một cảm xúc không thể nói nên lời với những câu thơ dung dị, nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình thể hiện hồi tưởng xúc động của tác giả về hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi và hình ảnh người bà hiền hậu.

Những năm đầu theo học luật tại nước Nga, từ xa tổ quốc, nhà thơ nhớ đến quê nhà da diết. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dạy sớm đi học, nhà thơ hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai, củ sắn cho cả nhà. Từ đó khơi gợi nguồn cảm hứng để nhà thơ viết nên bài thơ này.

Bếp lửa

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...


(Bằng Việt)

 

 
Bình luận (0)