Douglas MacArthur | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 10/12/2022

Douglas MacArthur

Atabook.com - Truyền bá tri thức.

Douglas MacArthur

Douglas MacArthur (1880 - 1964) 


Douglas MacArthur là người Mỹ duy nhất từng chiến đấu trong ba cuộc chiến lớn là Thế chiến I, II và Chiến tranh Triều Tiên.

Ông từng làm Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, là một trong năm quân nhân Mỹ được phong hàm Thống tướng (General of the Army) và là người Mỹ duy nhất được Chính phủ Phillipines  phong hàm Nguyên soái Quân đội Phillipines (Filed Marsal).
 

Tiểu sử


Douglas MacArthur sinh ngày 26/01/1880 tại Arkansas, Hoa Kỳ. Ông là con của trung tướng Arthur MacArthur, Jr. và là cháu của chính trị gia Arthur MacArthur, Sr.

Do cha của Douglas MacArthur đồn trú ở Texas năm 1893 nên ông theo học ở Học viện quân sự Tây Texas.

Năm 1898, MacArthur vào Học viện quân sự West Point

Năm 1903, MacArthur tốt nghiệp hạng nhất trường West Point, đồng thời gia nhập Tiểu đoàn kỹ sư 3 hoạt động tại Phillipines.

Năm 1904, ông được thăng chức Trung úy đầu tiên tại Manila (Phillipines) vào tháng 4/1904. Đến tháng 10/1904, ông trở về San Francisco (Hoa Kỳ) sau khi bị sốt rét ở Phillipines.

Năm 1905, MacArthur trở thành Kỹ sư trưởng của Sư đoàn Thái Bình Dương. Sau đó, ông nhận lệnh chuyển sang công tác tại Tokyo để làm phụ tá cho cha của ông.


Năm 1906, Douglas nhận được lệnh báo cáo cho Tiểu đoàn Kỹ Sư 2 tại Washington và ghi danh vào Trường Kỹ Sư. Trong khi đó, ông cũng là một trợ lý hỗ trợ Nhà Trắng theo yêu cầu của Tổng thống Theodore Roosevelt.

Năm 1907, MacArthur được gửi đến văn phòng kỹ sư ở Milwaukee, nơi cha mẹ ông đang sống.

Năm 1908, ông chuyển đến Fort Leavenworth, nơi ông được giao nhiệm vụ đầu tiên của mình, Công ty K, Tiểu đoàn Kỹ sư thứ 3

Năm 1909, ông trở thành phụ tá tiểu đoàn

Năm 1910, ông làm sĩ quan kỹ sư tại Fort Leavenworth

Năm 1911, MacArthur được thăng chức và được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Kỹ thuật Quân sự và Trường Kỹ sư Thực địa. Ông còn tham gia huấn luyện tại San Antonio, Texas, với Sư đoàn Cơ động

Năm 1912, ông phục vụ tại Panama vào tháng 1 và tháng 2 năm 1912. Cái chết đột ngột của cha ông vào ngày 5 tháng 9 năm 1912 khiến ông và anh trai trở lại Milwaukee để chăm sóc cho mẹ của họ khi sức khỏe ngày một xấu đi. Ông sau đó được chuyển sang Văn phòng Tham mưu trưởng.

Năm 1914, ông được lệnh chuyển đến  Veracruz(Mexico) công tác

Năm 1915, MacArthur trở lại Sở Chiến tranhnơi ông được thăng chức vào ngày 11 tháng 12 năm 1915

Năm 1916, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Thông tin tại văn phòng Bộ trưởng Chiến tranh

Năm 1917, MacArthur được thăng hàm đại tá.

Năm 1918, ông được thăng chức tướng quân. Ngày 10/11/1918, MacArthur được bổ nhiệm làm tư lệnh Sư đoàn 42.

Năm 1919, MacArthur trở thành Giám đốc của Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point

Năm 1922, MacArthur lập gia đình lần đầu với bà Henrietta Louise Cromwell Brookson. Hai người ly dị vào năm 1929. 

Từ 1922 đến 1930, MacArthur phục vụ hai lượt nhiệm vụ tại Philippines, lần thứ hai là tư lệnh Bộ Quân sự Philippines (1928-1930); ông cũng phục vụ hai vòng nhiệm vụ với vai trò tư lệnh các vùng quân sự tại Hoa Kỳ.

Năm 1925, ông được thăng thiếu tướng, giới chức quân sự trẻ nhất trong cấp bậc này vào thời đó, và phục vụ trong tòa án quân sự kết án chuẩn tướng Billy Mitchell.

Năm 1928, ông lãnh đạo Ủy ban Thế vận hội Hoa Kỳ cho Thế vận hội Mùa hè 1928 tại Amsterdam.

Năm 1932 khi Tổng thống Herbert Hoover ra lệnh cho MacArthur giải tán Đoàn quân đòi bổng lộc (Bonus Army) gồm các cựu chiến binh đang tập trung tại thủ đô biểu tình chống chính quyền, MacArthur bị chỉ trích vì dùng hơi cay, xe tăng, kị binh với kiếm khỏi vỏ và bộ binh với lưỡi lê giương lên để giải tán những người biểu tình.

Năm 1935, khi Thịnh vượng chung Philippines giành được tư cách bán độc lập, Tổng thống Philippines Manuel L. Quezon yêu cầu MacArthur giám sát việc thành lập quân đội Philippines. Là một tướng quân, MacArthur không chọn hồi hưu và vẫn có tên trong danh sách hiện dịch là một thiếu tướng và với sự đồng thuận của Rosevelt, MacArthur nhận nhiệm vụ. MacArthur được phong hàm Thống tướng Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippine Army). Ông là sĩ quan cao cấp có tên trên danh sách của Quân đội Philippines ngày nay—ông cũng là sĩ quan quân sự Mỹ duy nhất giữ cấp bậc thống tướng trong Quân đội Philippines.

Năm 1937, MacArthur kết hôn lần 2 với Jean Marie Faircloth.
 
Năm 1941, Roosevelt gọi ông trở lại nhiệm vụ hiện dịch trong Quân đội Hoa Kỳ với tư cách là một thiếu tướng và đặc cách ông làm tư lệnh của Tổng lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ ở Viễn Đông và thăng chức ông lên hàm trung tướng vào ngày hôm sau. Tháng 12, ông trở thành đại tướng bốn sao khi Nhật Bản tấn công khắp mặt trận rộng lớn trong Thái Bình Dương.

Sau khi Hoa Kỳ tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai, MacArthur trở thành tư lệnh Đồng Minh tại Philippines.

Măm 1942, khi lực lượng Nhật Bản xiết chặt vòng vây trên lãnh thổ Philippines, MacArthur được lệnh của Tổng thống Roosevelt rời Philippines sang Melbourne, Úc. Tại đây, MacArthur được bổ nhiệm là Tư lệnh Tối cao Tổng lực lượng Đồng Minh trong Vùng Tây Nam Thái Bình Dương.

Năm 1944, Tổng lực lượng Đồng Minh dưới quyền tư lệnh của MacArthur đổ bộ lên Đảo Leyte, thực hiện lời hứa của MacArthur là trở lại Philippines. Cũng trong năm này, MacArthur được thăng cấp bậc mới là Thống tướng vào ngày 18/12/1944. 

Năm 1945, MacArthur được lệnh áp đặt quyền lực đối với bộ máy hành chính của triều đình Nhật Bản, trong đó có cả Thiên hoàng Hirohito. Khoảng 350.000 quân Mỹ kéo vào Nhật Bản và đóng căn cứ ở hầu khắp đất nước này, lực lượng này được đặt dưới sự chỉ huy của MacArthur.


Sau khi đến Nhật, MacArthur lập tức ra lệnh cấm quân đội Đồng minh tấn công người Nhât và dùng lương thực thực phẩm của Nhật. Ông yêu cầu Chính phủ Mỹ viện trợ khẩn cấp lương thực thực phẩm cho Nhật để ngăn ngừa nạn đói và rối loạn chính trị.

Năm 1946, bộ tư lệnh của MacArthur soạn thảo một bản hiến pháp mới từ bỏ chiến tranh và giảm vị thế của Thiên hoàng xuống thành một biểu tượng hình thức; hiến pháp này vẫn còn được sử dụng tại Nhật cho đến ngày nay. Ông cũng thúc ép Nghị viện Nhật thực hiện chương trình phân quyền (decentralization) để tách nhỏ các tập đoàn công nghiệp lũng đoạn của Nhật và khuyến khích thành lập các công đoàn Nhật Bản đầu tiên.

MacArthur chủ trương xây dựng tại Nhật một chế độ dân chủ kiểu Mỹ. Ông từng nói: Xét theo tiêu chuẩn hiện đại, nước Nhật là “một bé trai 12 tuổi” (a boy of 12), cần được dẫn dắt tiến lên chế độ dân chủ và chế độ tư bản phương Tây.

Năm 1949, MacArthur trao quyền lại cho chính phủ mới thành lập của Nhật và vẫn ở Nhật Bản cho đến khi bị Tổng thống Harry S. Truman triệu hồi ngày 11 tháng 4 năm 1951

Khoảng năm 1952, chế độ chiếm đóng của Mỹ chấm dứt, Nhật Bản là một quốc gia có chủ quyền và Nhà nước tuân theo hiến pháp mà MacArthur đã tạo ra. Hiến pháp này đã có hiệu lực kể từ năm 1947.

MacArthur một mình cai trị toàn diện nước Nhật bại trận trong gần 6 năm, bỏ ngoài tai mọi ý kiến bất đồng của các nghị sĩ và quan chức Mỹ; người ta gọi ông là "nhà độc tài thần thánh" (Godlike dictator). MacArthur chưa hề đi hết nước Nhật, ông rất ít gặp người Nhật, chỉ tiếp xúc với một số quan chức Nhật cấp cao, thế nhưng đông đảo dân Nhật có thiện cảm với ông tới mức say mê, tôn kính ông như tôn kính Thiên Hoàng, coi ông là cứu tinh của nước Nhật
. Ngày ông trở về Mỹ, hàng trăm nghìn người Nhật kéo nhau ra đường đưa tiễn, hô vang "Đại nguyên soái", nhiều người nước mắt ròng ròng.
 
Douglas MacArthur
Tướng MacArthur ký văn bản đầu hàng của Nhật, đánh dấu kết thúc Thế chiến II. Ảnh: AP

Nhiều sử gia cho rằng việc đưa nước Nhật đi từ chế độ quân phiệt phong kiến lên chế độ dân chủ hiện đại là công trạng lớn nhất của MacArthur, lớn hơn bất cứ chiến công nào ông từng lập được trên các chiến trường Thế chiến I, II và chiến tranh Triều Tiên. Bản thân MacArthur cũng tự coi ông là người mở cửa nước Nhật lần thứ hai, hơn là một người chinh phục quốc gia này.

Vị tướng 5 sao này nổi tiếng với câu nói: “Trong chiến tranh không có gì thay thế được chiến thắng" (In war, there is no substitute for victory). Ông có cá tính mạnh mẽ, thẳng thắn tranh cãi với cấp trên, với các Tổng thống Mỹ ông từng phục vụ. Cũng vì mâu thuẫn với Tổng thống Truman về chủ trương giải quyết cuộc chiến tranh Triều Tiên (MacArthur muốn ném bom vùng Đông Bắc Trung Quốc, Truman phản đối vì ngại Liên Xô có cớ can thiệp) mà tháng 4/1951 ông bị mất chức và phải về Mỹ, kết thúc cuộc đời binh nghiệp 52 năm.

Năm 1956, Thượng nghị sĩ Joseph Martin đưa ra một đề nghị thăng chức MacArthur lên cấp bậc tướng 6 sao; tuy nhiên, điều này gây ra vấn đề với Tổng thống Dwight D. Eisenhower, và rồi việc này cũng chìm luôn trong Thượng viện Hoa Kỳ.

MacArthur trở thành lãnh đạo của Công ty chế tạo máy Remington Rand và trải qua phần còn lại của cuộc đời mình tại New York.

Năm 1961, ông thực hiện "chuyến đi đầy cảm xúc" ngoạn mục đến Philippines khi được Tổng thống Carlos P. Garcia trao tặng Philippine Legion of Honor dành cho Tham mưu trưởng.

Năm 1964, MacArthur qua đời 
trong một căn phòng của Khách sạn Waldorf-Astoria nơi ông và người vợ thứ hai của ông, Jean Faircloth, trải qua những năm cuối cùng của họ với nhau.

Mộ của ông tọa lạc tại 
trung tâm thành phố Norfolk, Virginia, trong gian phòng tròn của một nhà tưởng niệm/viện bảo tàng (trước kia là Đại sảnh Thành phố Norfolk) dành tưởng nhớ ông, và có một khu trung tâm mua sắm chính đặt tên của ông (MacArthur Center) phía bên kia đường của khu tưởng niệm. Theo viện bảo tàng, Tướng MacArthur chọn được chôn tại Norfolk vì tổ tiên của mẹ ông có mối liên hệ với thành phố.

Danh ngôn, câu nói nổi tiếng của Douglas MacArthur

 

Tướng Douglas macArthur
Tướng Douglas MacArthur tại Manila (Phillipines) năm 1945. Ảnh: AP 
 
Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng.
In war, there is no substitute for victory.

Đừng bao giờ ra thứ mệnh lệnh không thể phục tùng.
Never give an order that can't be obeyed.

Thứ vận may tốt nhất là thứ vận may anh tự tạo ra cho chính mình.
The best luck of all is the luck you make for yourself.

Bạn được nhớ tới vì những luật lệ bạn phá vỡ.
You are remebered for the rules you break

Chúng ta không rút lui - chúng ta đang tiến lên theo hướng khác.
We are not retreating - we are advancing in another direction.

Dù trong gông cùm hay dưới vòng nguyệt quế, tự do không biết đến điều gì khác ngoài chiến thắng.
Whether in chains or in laurels, liberty knows nothing but victories.

Người lính là người cầu nguyện cho hòa bình nhiều hơn bất cứ ai, bởi chính người lính là người phải chịu đựng và mang những vết thương và sẹo chiến tranh nặng nề nhất.
The soldier above all others prays for peace, for it is the soldier who must suffer and bear the deepest wounds and scars of war.

Chỉ những người không sợ chết là đáng sống.
Only those are fit to live who are not afraid to die.

Tuổi tác ghi nếp nhăn lên cơ thể. Bỏ cuộc ghi nếp nhăn lên tâm hồn.
Age wrinkles the body. Quitting wrinkles the soul.

Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Ba từ thiêng liêng ấy cung kính nêu lên điều anh phải trở thành, điều anh có thể trở thành và điều anh sẽ trở thành.
Duty, Honor, Country. Those three hallowed words reverently dictate what you ought to be, what you can be, what you will be.

Thế giới là mưu đồ triền miên chống lại kẻ can trường. Đó là cuộc vật lộn từ xa xưa: một bên là tiếng gào thét của đám đông, và bên kia là tiếng của lương tâm bạn.
The world is in a constant conspiracy against the brave. It's the age-old struggle: the roar of the crowd on the one side, and the voice of your conscience on the other.

Tai họa chết người khi bước vào bất cứ cuộc chiến nào mà không có ý định chiến thắng.
It is fatal to enter any war without the will to win it.

Trên trái đất này không có sự bảo đảm; chỉ có cơ hội.
There is no security on this earth; there is only opportunity.

Trong chiến tranh, anh thắng hay thua, sống hay chết - và sự khác biệt chỉ là một chớp mắt.
In war, you win or lose, live or die - and the difference is just an eyelash.

Và cũng giống như người lính già trong bản ballad ấy, giờ tôi khép lại sự nghiệp quân sự của mình và cứ thế nhạt nhòa đi, một người lính già đã nỗ lực thực hiện bổn phận vì Chúa đã cho mình nhìn ra bổn phận đó.
And like the old soldier in that ballad, I now close my military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as God gave him the sight to see that duty.

Tôi lo lắng cho an toàn của Tổ quốc vĩ đại của chúng ta; không phải bởi vì những mối đe dọa từ bên ngoài, mà bởi vì những thế lực ngấm ngầm vận động từ bên trong.
I am concerned for the security of our great Nation; not so much because of any threat from without, but because of the insidious forces working from within.


Website cùng hệ thống

Logo AtaHome

Bình luận (0)