Lang bạt kỳ hồ là gì | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 02/09/2023

Lang bạt kỳ hồ là gì?

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn

Lang bạt kỳ hồ nghĩa gốc chỉ hình ảnh con sói giẫm lên cái yếm của chính nó, nghĩa phái sinh chỉ cái thế mắc kẹt, lúng túng không biết làm sao.

 
Lang bạt kỳ hồ
Lang bạt kỳ hồ nghĩa gốc dùng để chỉ hình ảnh con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó. Ảnh: Jianshu


Lang bạt nghĩa là gì?


Lang bạt là viết tắt của thành ngữ "Lang bạt kỳ hồ".

Theo Từ điển tiếng Việt  do Hoàng Phê chủ biên, lang bạt nghĩa là "sống nay đây mai đó ở những nơi xa lạ". Còn lang bạt kỳ hồ (hoặc lang bạt kì hồ) cũng là lang bạt nhưng nghĩa mạnh hơn.
[1] 

Nhiều từ điển tiếng Việt khác cũng có định nghĩa tương tự vì bốn tiếng lang bạt kỳ hồ (nói gọn thành lang bạt) đã trở thành một đơn vị từ vựng phổ biến trong tiếng Việt. 

Tuy nhiên, xét theo từ nguyên thì lang bạt kỳ hồ hoàn toàn không có nghĩa là “sống trôi giạt, lang thang, nay đây mai đó” như cách hiểu thông dụng hiện nay. Thực chất, lang bạt kỳ hồ là một câu của bài thơ Lang bạt (狼跋) còn gọi là bài Bân Phong 7 thuộc nhóm thơ Bân Phong 豳風 của phần Phong trong Kinh Thi [2], nguyên văn như sau:


Lang bạt kỳ hồ,
Tái trí kỳ vĩ.
Công tốn thạc phu
Xích tích kỷ kỷ. 

狼跋其胡
載疐其尾。
公孫碩膚、
赤舄几几。

Dịch nghĩa: 

Chó sói bước tới thì đạp nhằm miếng da thòng ở cổ 
Thoái lui thì đạp nhằm cái đuôi 
Chu công [3] từ tốn những vinh quang to tát và đẹp đẽ 
Ngài mang đôi giày đỏ một cách rất tự nhiên trang trọng

Dịch thơ: 

Da thòng cổ, tới đạp lên
Sói lui thì vấp, đạp trên đuôi dài. 
Công tử danh dự đẹp nầy 
Mang đôi giày đỏ dáng ngài đoan trang [4]


Bài thơ lang bạt - Kinh Thi
Bài thơ Lang bạt trong Kinh Thi. Ảnh: fashion.sina.cn 
 
Bài thơ Lang bạt (Bân Phong 7) được Chu Hi [5] chú giải như sau (nguyên văn):

"Chương này thuộc hứng. 跋 bạt, đạp lên; 胡 hồ, miếng da thòng ở trước cổ chó sói; 載 tái, thì; 疐 trí, vấp váp. Chó sói già thì có miếng da thòng ở dưới cổ, hễ tiến tới thì đạp nhằm miếng da thông ở cổ ấy, thoái lui thì đạp nhằm cái đuôi, 公 công, Chu công, 孫 tốn, khiêm nhường, từ tốn; 碩 thạc, to lớn; 膚 phu, đẹp; 赤舄 xích tích, giầy đỏ khi mặc lễ phục và đội mã; 几几 kỷ kỷ, dáng yên ổn trọng hậu.

Chu công dẫu bị lời phỉ báng nghi ngờ, nhưng cách xử trí của ngài không mất độ thường, cho nên mới được nhà thơ khen ngợi. Nói rằng: Chó sói bước tới thì đạp nhằm miếng da thòng ở cổ, thối lui thì đạp nhằm cái đuôi (ý nói tiến thoái đều khó khăn). Còn Chu công gặp phải biến cố vì lời phao truyền phỉ báng, mà cách ăn ở đi đứng vẫn an nhiên, tự đắc như thế, bởi vì với đạo cao đức cả ngài vẫn được yên vui, đức hạnh ấy không thể nào nói xiết được. Cho nên tuy gặp đại biến, ngài vẫn không mất độ thường.

Ôi! Chu công bị phỉ báng vì lời phao truyền của Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ, mà nhà thơ cho đó không phải do những người ở bốn phương trong nước làm ra, nhưng chính vì Chu công tự ý từ tốn những cái to tát đẹp đẽ kia, không nhận về phần mình là để khiến cho những miệng gièm pha không được gả tiếng xấu vào lòng trung thành sáng suốt của Chu công. Do đó ta có thể thấy tấm lòng của nhà thơ yêu mến Chu công rất sâu xa, kính trọng Chu công rất cùng cực. Mà phần lập ngôn của người trong bài thơ này cũng có phép tắc lắm". [6]


Như vậy, nghĩa gốc của lang bạt kỳ hồ dùng để chỉ hình ảnh con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó (nên không thể bước tới được); trong đó, langchó sói, bạtgiẫm đạp, kỳmột đại từ thay thế cho danh từ "lang", còn hồcái yếm da dưới cổ của một số loài thú

Thành ngữ này thường được rút gọn thành lang bạt nhằm để chỉ cái thế mắc kẹt, không biết làm sao.



Tại sao lang bạt kỳ hồ bị hiểu sai thành lang bạt giang hồ? 

Về lý do lang bạt kỳ hồ từ nghĩa gốc trong tiếng Hán bị hiểu sai trong tiếng Việt có thể là do từ nguyên dân gian mà ra. Khi không biết được ý nghĩa đích thực của lang bạt kỳ hồ, người ta đã liên hệ các thành tố của nó với những yếu tố mà mình đã biết.

Theo đó, lang (chắc) là lang thang, bạt (chắc) là phiêu bạt, hồ (chắc) là giang hồ dẫn đến cách hiểu thông dụng hiện nay rằng lang bạt kỳ hồ nghĩa là lang thang, không ổn định, sống rày đây mai đó.

Thậm chí có trường hợp biến câu lang bạt kỳ hồ thành lang bạt giang hồ vì cách hiểu sai phổ biến như chúng tôi vừa đề cập ở trên.



Chú thích

[1]. Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên. (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. Tr. 542.

[2] Kinh Thi (còn được gọi là Thi Tam Bách hoặc Thi Kinh tập truyện) là một bộ tổng tập thơ ca vô danh gồm khoảng 311 bài thơ của Trung Quốc - một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (tk 11–771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (770–476 TCN). Trong số 311 bài thơ, có 6 bài chỉ có đề mục chứ không có lời, gọi là "dật thi" (tức thơ đã mất). Trong 305 bài thơ còn lại, Kinh Thi được chia thành 3 phần gồm Phong, Nhã, Tụng. Bài thơ Lang bạt (Bân Phong 7) liên quan đến thành ngữ "lang bạt kỳ hồ" thuộc phần Phong.  

[3] Chu Công (1043 TCN? - ?) tên thật là Cơ Đán, còn gọi là Thúc Đán, Chu Đán hay Chu Văn Công, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ vương Cơ Phát lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp Tân vương là Chu Thành vương xây dựng và phát triển nhà Chu. Hình ảnh của ông tiêu biểu cho tấm lòng trung quân phò chúa, không sinh dị tâm, thường được hậu thế về sau nhắc đến cùng với Y Doãn nhà Thương. Nhà Chu dưới sự nhiếp chính của ông đã vươn lên thành một nước mạnh mẽ, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng nên nền Văn minh Trung Hoa rực rỡ về sau. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của Văn minh Trung Hoa khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công, quên đi cái tên Cơ Đán, khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.

[4], [6]. Khổng Tử, dịch giả Tạ Quang Phát. (2003). Kinh Thi, tập 1. NXB Đà Nẵng. Tr. 684 - 686. 

[5] Chu Hi (hoặc Chu Hy) sinh năm 1130, mất năm 1200, là người đã phát triển học thuyết lí - khí của Trình Hạo và Trình Di, đã đưa lí học lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh, được gọi là Trình Chu lí học. Lí học Chu Hi có ảnh hưởng lớn về sau ở Trung Quốc và trở thành tông phái chính của Nho học thời Minh - Thanh. Học thuyết của Chu Hi cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước khác ở Á Đông. Ở Việt Nam, thế kỉ XVI - XVIII, các nội dung lí học của Chu Hi thường được nhắc tới. Ở Nhật Bản, vào thời Đức Xuyên (1603 - 1867) việc nghiên cứu Chu Tử (Chu Tử học) rất thịnh hành.


 
Thư mục

• An Chi. (2006). Chuyện Đông chuyện Tây, tập 1. NXB Trẻ. 

• Khổng Tử, dịch giả Tạ Quang Phát. (2003). Kinh Thi, tập 1. NXB Đà Nẵng. 

• Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên. (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng.



 

Sách hay về "thế giới ngầm" và giới "giang hồ"


Bố giàBố già
NXB Văn học, 2022
Mua sách

Luật im la9ng5Luật im lặng
NXB Văn học, 2016
Mua sách

Lai rai chen ruou giang hoLai rai chén rượu giang hồ
NXB Hồng Đức, 2019
Mua sách  
 
Nếu Quý vị thấy bài viết này hữu ích, hãy mời Quang Nguyễn một tách cà phê nhé! 

Bình luận (0)