Tại sao gọi là ăn sương?
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn Ngữ học) định nghĩa ăn sương là "kiếm ăn một cách lén lút về ban đêm; làm nghề mãi dâm [1] hoặc ăn trộm. Gái ăn sương. Nghề ăn sương". [2]
Thực ra xuất xứ của ăn sương có ý nghĩa ban đầu không hẳn xấu và tiêu cực dùng để chỉ nghề ăn trộm hoặc làm nghề mại dâm như cách hiểu hiện nay. Về từ nguyên, ăn sương là nói gọn của ăn gió nằm sương có nguồn gốc từ thành ngữ tiếng Hán 餐風宿露 (xan phong túc lộ) hoặc 風餐露宿 (phong xan lộ túc), nghĩa là "ăn trong gió, ngủ trong sương", nghĩa mở rộng dùng để chỉ nỗi cực nhọc, vất vả.
Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng ra đời vào giữa thế kỷ 18, Đặng Trần Côn đã sử dụng thành ngữ phong xan lộ túc 風餐露宿 để chỉ nỗi vất vả của người lính ngoài chiến trường:
料想良人經歷處
蕭關角瀚海隅
霜村雨店
虎落蛇區
風餐露宿
雪脛冰鬚
登高望雲色
安復不生愁
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác Hãn Hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Giải nghĩa:
Ta liệu chừng những nơi chồng ta trải qua chính là nơi ....
Tiêu Quan, Hãn Hải từng lắm cảnh hiểm nghèo
Và những nơi quán sương sa, xóm mưa lạnh, nơi hang rắn ổ hùm
Khi ăn nằm, nơi sương phủ giá đông, tuyết đóng nơi râu cổ lạnh lùng
Cùng những lúc lên nơi cao trông màu mây trắng
Sao cho khỏi sinh lòng nhớ quê hương buồn rầu.
Đoạn thơ trên được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm [3] như sau:
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ phong sương
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương
Có lẽ hình ảnh những cô gái bán hoa, đứng trong đêm co ro vì sương khuya để chờ khách khiến ý nghĩa ban đầu của từ ăn sương bị biến dạng khi người ta thêm trước nó chỉ một từ: gái!