Gái ăn sương là gì | Atabook.com
Cập nhật lần cuối vào ngày 27/11/2023

Gái ăn sương là gì?

Quang Nguyễn
Quang Nguyễn

Gái ăn sương là từ dùng để chỉ những cô gái vì nhiều lý do khác nhau phải làm nghề bán trôn nuôi miệng, nói khác hơn là làm đĩ, gái mại dâm.
 

Gái ăn sương là gì
Gái ăn sương dùng để chỉ những cô gái làm nghề bán trôn nuôi miệng. Ảnh minh họa

 


Tại sao gọi là ăn sương? 

Từ điển tiếng Việt  (Viện Ngôn Ngữ học) định nghĩa ăn sương là "kiếm ăn một cách lén lút về ban đêm; làm nghề mãi dâm [1] hoặc ăn trộm. Gái ăn sương. Nghề ăn sương". [2]


Thực ra xuất xứ của ăn sương có ý nghĩa ban đầu không hẳn xấu và tiêu cực dùng để chỉ nghề ăn trộm hoặc làm nghề mại dâm như cách hiểu hiện nay. Về từ nguyên, ăn sương là nói gọn của ăn gió nằm sương có nguồn gốc từ thành ngữ tiếng Hán 餐風宿露 (xan phong túc lộ) hoặc 風餐露宿 (phong xan lộ túc), nghĩa là "ăn trong gió, ngủ trong sương", nghĩa mở rộng dùng để chỉ nỗi cực nhọc, vất vả.  


Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng ra đời vào giữa thế kỷ 18, Đặng Trần Côn đã sử dụng thành ngữ phong xan lộ túc 風餐露宿 để chỉ nỗi vất vả của người lính ngoài chiến trường:


料想良人經歷處
蕭關角瀚海隅
霜村雨店
虎落蛇區
風餐露宿
雪脛冰鬚
登高望雲色
安復不生愁


Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác Hãn Hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu


Giải nghĩa:

Ta liệu chừng những nơi chồng ta trải qua chính là nơi ....
Tiêu Quan, Hãn Hải từng lắm cảnh hiểm nghèo
Và những nơi quán sương sa, xóm mưa lạnh, nơi hang rắn ổ hùm
Khi ăn nằm, nơi sương phủ giá đông, tuyết đóng nơi râu cổ lạnh lùng
Cùng những lúc lên nơi cao trông màu mây trắng
Sao cho khỏi sinh lòng nhớ quê hương buồn rầu.


Đoạn thơ trên được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm [3] như sau:

Tưởng chàng rong ruổi mấy niên
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ phong sương
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương


Có lẽ hình ảnh những cô gái bán hoa, đứng trong đêm co ro vì sương khuya để chờ khách khiến ý nghĩa ban đầu của từ
ăn sương bị biến dạng khi người ta thêm trước nó chỉ một từ: gái!
 


Chú thích


[1]. Chúng tôi giữ nguyên văn từ mãi dâm của Viện ngôn ngữ học trong định nghĩa về ăn sương. Thật ra, trong ngữ cảnh này, từ chính xác phải là mại dâm. Mại dâm là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở chữ ghi là 賣淫 có nghĩa là "bán dâm", trong đó chữ 賣 nghĩa là "bán". Còn mãi dâm có nghĩa là "mua dâm" bắt nguồn ở chữ Hán ghi là 買淫, trong đó chữ  có nghĩa là "mua".  Do đó, việc sử dụng mãi dâm (tức mua dâm) cho những người làm nghề bán dâm như gái ăn sương mà Từ điển tiếng Việt đã ghi là không chính xác.  

[2]
Viện Ngôn Ngữ Học, Hoàng Phê chủ biên. (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. Tr. 14.

[3]. Hoàng Xuân Hãn cho rằng người diễn Nôm bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (mà ông gọi là Chinh phụ ngâm diễn ca), không phải Đoàn Thị Điểm mà là Phan Huy Ích.


Thư mục


• Viện Ngôn Ngữ Học, Hoàng Phê chủ biên. (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng.

• Bửu Kế. (1968). Tầm nguyên từ điển (Cổ văn học từ ngữ tầm nguyên) Sài Gòn: NXB Khai Trí.

• Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, dẫn giải và chú thích Vân Bình Tôn Thất Lương. (1973). Chinh phụ ngâm khúc. Sài Gòn: NXB Tân Việt.

• Phan Huy Ích, dẫn giải và chú thích Hoàng Xuân Hãn. (1954). Chinh phụ ngâm diễn ca. Paris (Pháp): NXB Minh Tân.

Bình luận (0)